LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Theo tài liệu “Di tích lịch sử văn hóa đền Rừng – Gia Thượng Linh từ” do địa phương cung cấp có ghi như sau:
Ngày xưa, khi chưa có đê bao, người dân thường tìm khu gò đất cao cư trú vì đó là ghềnh của sóng đất. Khi triều Lý định đô ở Thăng Long đã cho đắp đê chống lụt, định cư canh tác nông nghiệp. Cũng vào giai đoạn mở rộng kinh đô Thăng Long thì bãi Cơ Xá được hình thành (sau đổi thành An Xá, Phúc Xá). Cư dân làng Cơ Xá di chuyển dần sang bờ Bắc, lúc đầu ở bãi giữa sông gọi là Trung Hà, sau định cư bên bờ Bắc nên gọi là Bắc Biên.
Mạn trên của Bắc Biên là vùng đất cao thoáng, đất đai màu mỡ và người dân di cư lên khai hoang, lập làng và dần hình thành làng Gia Thượng – vùng đất mặt trên tốt lành. Đoạn tiếp đầu giữa Bắc Biên và Gia Thượng là một doi đất. Doi đất này có quá trình kiến tạo tự nhiên và sự điều chỉnh dòng sông Đuống. Phần đầu doi đất là ngã ba sông Hồng và sông Đuống. Phần cuối là nơi hội tụ những linh khí tốt lành, nơi ghềnh cao hơn so với xung quanh. Đó là vị trí đắc địa nhưng thoáng đãng, phía trước có dòng chảy, phía sau có gò cao (người dân lập đền gọi là đền Núi). Xưa kia bãi sông Hồng cuối làng Gia Thượng bạt ngàn lau sậy. Người dân trong làng dựng đình thờ đức Linh Lang đại vương để cầu tiêu thoát nước và nơi đây dần hình thành đền thờ chúa Thượng Ngàn để cầu phúc hiện hữu đến ngày nay.
Theo truyền thuyết, ông Lê Văn Năm (không rõ năm sinh) là người làng Gia Thượng (còn gọi là ông Năm Cua) vì xuất thân ông chuyên đi mò cua, bắt ốc ở ven sông. Ông Năm kết duyên cùng với bà Phạm Thị Gái, người xã Lộc Vượng, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Bà là con một gia đình buôn bán giàu có nhưng khi lấy chồng đã chuyển về Gia Thượng sinh sống và dần quen với nếp nhà chồng. Hai vợ chồng ông bà rất mực yêu thương nhau. Ông Năm vẫn làm nghề chài lưới, những hôm được mẻ cá lớn đều mang lên khu đò học bán cho thương lái. Bà Gái tần tảo trồng dâu nuôi tằm nhưng bà hay ốm yếu. Những khi nhàn rỗi, bà thường ra khu bãi ghềnh cao cắt lau sậy về làm củi.
Một hôm, vào giữa trưa mùa Thu mát mẻ, bà ra bãi cắt cỏ lau, tự nhiên thấy trời đất xoay vần và ngủ thiếp đi. Trong cơn mơ, bà lạc vào chốn vùng cao ngút ngàn cây trái, chim hót líu lo. Xa xa có thác nước chảy, suối reo thật là thơ mộng. Thấp thoáng trong sương mù là những tòa điện mái đao cong, những cô gái sơn cước đùa vui hòa trong tiếng đàn, tiếng sáo. Đang mải ngắm cảnh thần tiên, bỗng có một bà lão mặc trang phục màu xanh lá cây, mặt hồng phấn, tay cầm phất trần đến hỏi “Con là ai? Mà sao con đến chốn này”. Bà bèn kể lại gia cảnh cho bà lão nghe. Nghe xong, bà lão nói “Nơi đây là chốn thượng ngàn linh thiêng! Nơi con sống là viễn cảnh, cũng là chốn ghềnh thiêng ta thường du ngự. Ta thấy con có duyên căn với tiên cảnh Thượng ngàn. Con hãy về cùng với dân làng dựng đền vọng thờ chúa Thượng. Ta sẽ phù hộ, độ trì cho dân làng phúc nghiệp và con sẽ bệnh tật tiêu trừ”.
Nói xong, bà phất cây phất trần, đóa mây trắng nâng bà lên trời cao, trong tiếng cười vang vọng. Bà chợt tỉnh dậy thì đó là một giấc mơ. Về nhà, bà kể lại cho chồng nghe. Lúc đầu, ông bảo đó chỉ là một giấc mơ chứ đâu có thật. Nhưng sau đó, mỗi đêm, hai ông bà đều được ứng mộng với cảnh tượng như bà đã gặp trong giấc mơ. Cuối cùng, hai ông bà đã kể lại cho dân làng nghe, mọi người đều đồng thuận chọn vị trí trung tâm của ghềnh cao dựng đền thờ chúa Thượng Ngàn và đặt tên là đền Rừng. Ngôi đền hướng ra sông Hồng, phía trước là bãi lau sậy với không gian tự nhiên thoáng đãng, phía sau có gò núi làm chỗ dựa tạo thành “Tiền án hậu chẩm”. Sau khi dựng đền, ông bà cùng với dân làng đã tôn tượng chúa Thượng Ngàn để thờ phụng, đồng thời cử bà Gái làm chủ nhang, chăm nom hương khói phụng thờ. Từ đó, bà Gái khỏe mạnh, bệnh tật ốm đau đều hết, lòng trở nên thanh tịnh. Một hôm, bà lại mơ thấy chúa Thượng Ngàn giáng xuống và truyền răn cho địa phương tô thêm pho tượng chúa Thượng Thiên.
Từ đó, trong cung đền có hai bức tượng chúa Thượng Ngàn và chúa Thượng Thiên để nhân dân lễ bái. Về sau, nhân dân công đức thêm các pho tượng Tam tòa Thánh Mẫu làm nền tảng cho việc thờ Mẫu và bổ sung các pho tượng Chầu Bà, Quan Lớn, các ông Hoàng, lầu Cô, lầu Cậu… Hàng năm, Xuân Thu nhị kỳ và các tiết lễ, dân làng Gia Thượng đều tổ chức lễ cầu phúc, cầu mùa hoặc khi có dịch bệnh, thiên tai, dân làng cầu đảo rất ứng nghiệm.
Theo hồ sơ khảo sát di tích đền Rừng ngày 20/8/1984, hiện lưu tại Ban quản lý di tích danh thắng Hà Nội có ghi: “Đền Rừng thờ tam tòa thánh mẫu: Thượng thiên, Thượng ngàn và Thủy cung”. Sự tích về Mẫu, dân gian kể nhiều chi tiết khác nhau nhưng đều chung một cốt chuyện.