Đền Rừng (còn gọi là Tứ Vị Phủ, Gia Thượng Linh Từ) là di tích lịch sử văn hóa tọa lạc tại phường Ngọc Thụy, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Ngôi đền có vị trí đắc địa “trên bến dưới thuyền”, mặt hướng ra dòng sông Hồng phù sa đỏ, phía sau có gò cao tạo thành thế “Tiền án hậu chẩm”. Với không gian thoáng đãng, linh thiêng, đền Rừng là điểm đến tâm linh nổi tiếng tại Thủ đô, thu hút đông đảo du khách thập phương.

Đền được xây dựng từ lâu đời để phụng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, đức Linh Lang đại vương và các vị đồng đền có công duy trì các hoạt động tín ngưỡng tại di tích. Hiện nay, đền Rừng là trung tâm thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu và tổ chức nhiều sự kiện văn hóa quan trọng của địa phương.

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

Theo tài liệu “Di tích lịch sử văn hóa đền Rừng – Gia Thượng Linh từ” do địa phương cung cấp có ghi như sau:

Ngày xưa, khi chưa có đê bao, người dân thường tìm khu gò đất cao cư trú vì đó là ghềnh của sóng đất. Khi triều Lý định đô ở Thăng Long đã cho đắp đê chống lụt, định cư canh tác nông nghiệp. Cũng vào giai đoạn mở rộng kinh đô Thăng Long thì bãi Cơ Xá được hình thành (sau đổi thành An Xá, Phúc Xá). Cư dân làng Cơ Xá di chuyển dần sang bờ Bắc, lúc đầu ở bãi giữa sông gọi là Trung Hà, sau định cư bên bờ Bắc nên gọi là Bắc Biên.

Mạn trên của Bắc Biên là vùng đất cao thoáng, đất đai màu mỡ và người dân di cư lên khai hoang, lập làng và dần hình thành làng Gia Thượng – vùng đất mặt trên tốt lành. Đoạn tiếp đầu giữa Bắc Biên và Gia Thượng là một doi đất. Doi đất này có quá trình kiến tạo tự nhiên và sự điều chỉnh dòng sông Đuống. Phần đầu doi đất là ngã ba sông Hồng và sông Đuống. Phần cuối là nơi hội tụ những linh khí tốt lành, nơi ghềnh cao hơn so với xung quanh. Đó là vị trí đắc địa nhưng thoáng đãng, phía trước có dòng chảy, phía sau có gò cao (người dân lập đền gọi là đền Núi). Xưa kia bãi sông Hồng cuối làng Gia Thượng bạt ngàn lau sậy. Người dân trong làng dựng đình thờ đức Linh Lang đại vương để cầu tiêu thoát nước và nơi đây dần hình thành đền thờ chúa Thượng Ngàn để cầu phúc hiện hữu đến ngày nay.

Theo truyền thuyết, ông Lê Văn Năm (không rõ năm sinh) là người làng Gia Thượng (còn gọi là ông Năm Cua) vì xuất thân ông chuyên đi mò cua, bắt ốc ở ven sông. Ông Năm kết duyên cùng với bà Phạm Thị Gái, người xã Lộc Vượng, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Bà là con một gia đình buôn bán giàu có nhưng khi lấy chồng đã chuyển về Gia Thượng sinh sống và dần quen với nếp nhà chồng. Hai vợ chồng ông bà rất mực yêu thương nhau. Ông Năm vẫn làm nghề chài lưới, những hôm được mẻ cá lớn đều mang lên khu đò học bán cho thương lái. Bà Gái tần tảo trồng dâu nuôi tằm nhưng bà hay ốm yếu. Những khi nhàn rỗi, bà thường ra khu bãi ghềnh cao cắt lau sậy về làm củi.

Một hôm, vào giữa trưa mùa Thu mát mẻ, bà ra bãi cắt cỏ lau, tự nhiên thấy trời đất xoay vần và ngủ thiếp đi. Trong cơn mơ, bà lạc vào chốn vùng cao ngút ngàn cây trái, chim hót líu lo. Xa xa có thác nước chảy, suối reo thật là thơ mộng. Thấp thoáng trong sương mù là những tòa điện mái đao cong, những cô gái sơn cước đùa vui hòa trong tiếng đàn, tiếng sáo. Đang mải ngắm cảnh thần tiên, bỗng có một bà lão mặc trang phục màu xanh lá cây, mặt hồng phấn, tay cầm phất trần đến hỏi “Con là ai? Mà sao con đến chốn này”. Bà bèn kể lại gia cảnh cho bà lão nghe. Nghe xong, bà lão nói “Nơi đây là chốn thượng ngàn linh thiêng! Nơi con sống là viễn cảnh, cũng là chốn ghềnh thiêng ta thường du ngự. Ta thấy con có duyên căn với tiên cảnh Thượng ngàn. Con hãy về cùng với dân làng dựng đền vọng thờ chúa Thượng. Ta sẽ phù hộ, độ trì cho dân làng phúc nghiệp và con sẽ bệnh tật tiêu trừ”.

Nói xong, bà phất cây phất trần, đóa mây trắng nâng bà lên trời cao, trong tiếng cười vang vọng. Bà chợt tỉnh dậy thì đó là một giấc mơ. Về nhà, bà kể lại cho chồng nghe. Lúc đầu, ông bảo đó chỉ là một giấc mơ chứ đâu có thật. Nhưng sau đó, mỗi đêm, hai ông bà đều được ứng mộng với cảnh tượng như bà đã gặp trong giấc mơ. Cuối cùng, hai ông bà đã kể lại cho dân làng nghe, mọi người đều đồng thuận chọn vị trí trung tâm của ghềnh cao dựng đền thờ chúa Thượng Ngàn và đặt tên là đền Rừng. Ngôi đền hướng ra sông Hồng, phía trước là bãi lau sậy với không gian tự nhiên thoáng đãng, phía sau có gò núi làm chỗ dựa tạo thành “Tiền án hậu chẩm”. Sau khi dựng đền, ông bà cùng với dân làng đã tôn tượng chúa Thượng Ngàn để thờ phụng, đồng thời cử bà Gái làm chủ nhang, chăm nom hương khói phụng thờ. Từ đó, bà Gái khỏe mạnh, bệnh tật ốm đau đều hết, lòng trở nên thanh tịnh. Một hôm, bà lại mơ thấy chúa Thượng Ngàn giáng xuống và truyền răn cho địa phương tô thêm pho tượng chúa Thượng Thiên.

Từ đó, trong cung đền có hai bức tượng chúa Thượng Ngàn và chúa Thượng Thiên để nhân dân lễ bái. Về sau, nhân dân công đức thêm các pho tượng Tam tòa Thánh Mẫu làm nền tảng cho việc thờ Mẫu và bổ sung các pho tượng Chầu Bà, Quan Lớn, các ông Hoàng, lầu Cô, lầu Cậu… Hàng năm, Xuân Thu nhị kỳ và các tiết lễ, dân làng Gia Thượng đều tổ chức lễ cầu phúc, cầu mùa hoặc khi có dịch bệnh, thiên tai, dân làng cầu đảo rất ứng nghiệm.

Theo hồ sơ khảo sát di tích đền Rừng ngày 20/8/1984, hiện lưu tại Ban quản lý di tích danh thắng Hà Nội có ghi: “Đền Rừng thờ tam tòa thánh mẫu: Thượng thiên, Thượng ngàn và Thủy cung”. Sự tích về Mẫu, dân gian kể nhiều chi tiết khác nhau nhưng đều chung một cốt chuyện.

 

KIẾN TRÚC ĐỀN RỪNG

Đền Rừng là một quần thể kiến trúc tôn giáo gồm nhiều hạng mục:

  • Đền Chính: Gồm 4 nếp là tiền tế lớp ngoài, tiền tế lớp trong (còn gọi là cung công đồng), trung cung (nơi thờ Tam tòa thánh Mẫu) và Hậu cung (thờ nhị vị chúa bà).
  • Cung Quan Đệ Tam: Trước đây là ngôi đền Thượng thờ tứ vị thành hoàng làng, hiện nay là nơi thờ hóa thân của đức Linh Lang thượng đẳng thần.
  • Cung Sơn Trang: Nơi thờ bà chúa Sơn Trang, Chầu Bà Bắc Lệ và Tam vị chúa Mường.
  • Ban Mẫu Bán Thiên: Gồm ban thờ lộ thiên (Thượng thiên ngoài trời) và 2 lầu (Lầu cô bản đền và Lầu cậu bản đền).
  • Nhà Tổ: Nơi thờ các cụ là thủ nhang đồng đền qua các thời kỳ

VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH

Đền Rừng là trung tâm thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu – di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại được UNESCO ghi danh.

Thờ Mẫu Tam Phủ gồm ba vị thần chính:

  • Mẫu Thượng Thiên: Vị thần cai quản cõi trời, đại diện cho nguồn sinh lực vô biên, cốt lõi của sự sống
  • Mẫu Thượng Ngàn: Thánh Mẫu cai quản vùng rừng núi, bảo hộ cho nông nghiệp và đời sống con người
  • Mẫu Thoải (Thủy): Bà Chúa Lạch, vị thần sáng tạo ra các miền nước, bảo đảm nguồn nước và nghề chài lưới

Thờ Mẫu Sơn Trang: Tín ngưỡng lâu đời của người Việt, đặc biệt là các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc. Các vị thần trong tín ngưỡng này đa phần là nữ thần, các bà chúa, bảo hộ cho miền rừng núi.

Thờ Đức Linh Lang Đại Vương: Vị thần nổi tiếng được thờ ở nhiều nơi trên đất Thăng Long – Hà Nội. Qua các thời kỳ, thần đều được phong làm Thượng đẳng phúc thần.

Thờ Các Cụ Đồng Đền: Những người có tâm, có căn quả và duyên phận được phụng thờ Mẫu qua các đời, từ người đầu tiên đến nay là đời thứ 9.

Tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện niềm tin vào các vị nữ thần có chức năng sáng tạo, bảo trợ và che chở cho cuộc sống. Việc lấy hình tượng người mẹ làm trung tâm thể hiện khát vọng của con người vào cuộc sống tốt đẹp hơn.

LỄ HỘI VÀ HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA

Các lễ hội tại đền không chỉ là hoạt động tâm linh mà còn mang tính văn hóa, nghệ thuật với hát văn, múa và các trình diễn dân gian, tạo cơ hội cho du khách trải nghiệm và tìm hiểu về văn hóa truyền thống của người Việt.

Lễ Thượng Nguyên (15 tháng Giêng): Lễ quan trọng nhất trong năm, bao gồm lễ thánh Mẫu và tế thánh Linh Lang Đại Vương.

Lễ Vào Hè (Mùng 8 tháng 4): Lễ quan trọng thứ hai trong năm, cầu mong mùa màng tốt tươi, mưa thuận gió hòa.

Các Lễ Tiệc Mẫu: Diễn ra quanh năm theo tín ngưỡng thờ Mẫu, quy mô nhỏ hơn nhưng vẫn được tổ chức trang nghiêm.

Hoạt Động Hầu Đồng: Đền Rừng là địa điểm được phép tổ chức các hoạt động giao lưu, diễn xướng thực hành tín ngưỡng hầu đồng. Đặc biệt vào ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11), đền trở thành nơi tổ chức nghi lễ hầu đồng, thu hút đông đảo thanh đồng từ khắp nơi hội tụ.

GIÁ TRỊ VĂN HÓA, LỊCH SỬ

Giá trị lịch sử: Là minh chứng cho quá trình định cư, khai hoang của làng Gia Thượng – một trong những làng cổ của Hà Nội. Đền phản ánh lịch sử phát triển của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, một tín ngưỡng dân gian thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và tôn vinh vai trò của người phụ nữ.

Giá trị kiến trúc – nghệ thuật: Công trình mang đậm phong cách kiến trúc đình chùa truyền thống với sự sáng tạo trong bố cục và trang trí. Di tích bảo lưu nhiều hiện vật quý như bát hương gốm Thổ Hà, tượng chúa bà bằng đồng đen cổ, minh chứng cho kỹ thuật thủ công mỹ nghệ xưa.

Giá trị văn hóa – tâm linh: Là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng đặc sắc với nhiều nghi lễ, phong tục truyền thống. Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu kết hợp với hát văn, múa, trang phục dân gian tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo, góp phần bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc.

Giá trị cộng đồng: Là nơi kết nối, gắn kết cộng đồng, duy trì tình đoàn kết làng xã. Các hoạt động lễ hội tạo môi trường giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ và phát triển du lịch tâm linh, góp phần phát triển kinh tế địa phương.

Đền Rừng hiện được quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị bởi Tiểu ban quản lý di tích và chủ đồng đền dưới sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, trở thành điểm đến tâm linh và văn hóa nổi tiếng của Thủ đô